Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2017

Dịch vụ phi kiểm toán và tính riêng của kiểm toán viên ở Việt Nam

Chất lượng kiểm toán đòi hỏi phải luôn được nâng cao trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập mạnh khỏe với quốc tế. Tính độc lập là một thành phần cần thiết của chất lượng kiểm toán, bảo đảm an toàn sự khách quan của ý kiến kiểm toán. Do vậy, tính tự do kiểm toán khi được du nhập từ quốc tế vào Việt Nam sẽ có những khác biệt. Thông qua các phương pháp điều tra nghiên cứu, bài viết tìm ra được loại hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính chủ quyền của kiểm toán.


Tính hòa bình là thành phần thiết yếu của chất lượng kiểm toán. lúc bấy giờ, trên nhân loại có nhiều nghiên cứu về tính tự do kiểm toán nói chung và mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán nói riêng theo thời điểm và không gian khác nhau. Đối với nước ta ngành Kiểm toán còn non trẻ và có đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội khác so với các nước trên quả đât. Do đó, mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính hòa bình kiểm toán tại nước ta cũng có những đặc trưng khác với quả đât. nghiên cứu vấn đề này, bài viết tìm ra được kiểu dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính chủ quyền kiểm toán.

Xem thêm: Liên hệ ngay với công ty Vinasc nếu quý công ty có nhu cầu về Dịch vụ kế toán thuế nhanh chóng và chuyên nghiệp nhất.

Phương pháp nghiên cứu và điều tra

Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu và phương pháp diễn giải để nghiên cứu để tổng kết các điều tra nghiên cứu trước đã công bố trên các tạp chí uy tín; nghiên cứu các khái niệm, Lý thuyết có liên quan đến đề tài đang thực hiện. tiếp sau dùng cách thức nghiên cứu theo bối cảnh để xác định các loại dịch vụ phi kiểm toán có thể tác động đến tính chủ quyền kiểm toán phù hợp bối cảnh văn hóa, xã hội Việt Nam. tiếp nối, sử dụng phương pháp vấn đáp sâu chuyên gia cho đến khi đạt điểm bão hòa với bảng câu hỏi mở để xác định lại những từng loại dịch vụ phi kiểm toán có ảnh hưởng tác động đến tính tự do của kiểm toán viên Việt Nam hay không.

Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu điều tra nghiên cứu gồm có: Các bài báo khoa học công bố trên các tạp chí kế toán, kiểm toán hàng đầu; Các quy định quy định về đạo đức nghề nghiệp; tác dụng vấn đáp chuyên gia là giám đốc công ty kiểm toán, kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán, cán bộ tín dụng ngân hàng, giám đốc và kế toán trưởng công ty được kiểm toán, cán bộ hội nghề nghiệp kiểm toán nước ta.

1 số ít Vấn đề lý luận về tính tự do kiểm toán

Tính độc lập kiểm toán

Tính độc lập thường được mô tả như là nền tảng của kiểm toán và rất rất cần thiết cho báo cáo tài chính doanh nghiệp (Mautz & Sharaf, 1964; Previts & Merino, 1998). Bởi vì, kiểm toán được yêu cầu cung cấp sự đảo bảo hợp lý và khách quan rằng báo cáo tài chính của một doanh nghiệp phản ảnh trung thực và hợp lí, từ đó nâng cao độ tin tưởng cho báo cáo tài chính. Qua đó, các bên liên quan (cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng, nhà quy định luật, chủ nợ, Thị phần tài chính và công chúng) tin cậy vào sự khách quan và trung thực của những báo cáo rất có khả năng đưa ra quyết định cân xứng cho đầu tư.

Liên đoàn Kế toán quốc tế phân loại tính độc lập thành 2 phần: độc lập tư tưởng và độc lập hình thức. Trong khi độc lập tư tưởng là trạng thái suy nghĩ mà cho phép kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với sự khách quan, trung thực và hoài nghi mang tính công việc và nghề nghiệp, chủ quyền hình thức đòi hỏi tránh những tình huống mà có thể làm cho khách hàng có kiến thức về tất cả tình huống nghi ngại kiểm toán viên có khả năng đưa ra ý kiến khách quan.

mặc dù, tự do tư tưởng thì khó để nhận xét, vì vậy nhà làm luật, nhà đầu tư và quý khách hàng báo cáo tài chính khác thì hầu hết là đánh giá hòa bình hình thức bằng cách xem xét có hay không những tình huống mà có làm tổn hại đáng kể tính độc lập của kiểm toán viên là tồn tại những biện pháp bảo vệ để gia công nhẹ bớt những nguy cơ.

Ở Việt Nam, tính độc lập được quy định trong Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và công việc kế toán và kiểm toán ban hành theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 8/5/2015 của Bộ Tài chính. Tính tự do là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Tính độc lập đòi hỏi kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến phải độc lập về mặt hình thức và hòa bình về mặt tư tưởng.

Dịch vụ phi kiểm toán

Dịch vụ phi kiểm toán là những dịch vụ khác với dịch vụ kiểm toán mà công ty kiểm toán độc lập cung cấp cho cùng một khách hàng kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán gồm có: Dịch vụ tư vấn cai quản, dịch vụ kiến thiết hệ thống, dịch vụ tư vấn thuế… Các dịch vụ phi kiểm toán có tác dụng làm giảm tính độc lập kiểm toán viên.

triết lý đại diện

Lý thuyết đại diện xuất hiện trong những năm 1970 với nghiên cứu đầu tiên vào những vụ việc thông tin bất cân xứng giữa người chủ và người cai quản trong ngành Bảo hiểm (Spence và Zeckhauser, 1971; Ross, 1973) và gấp rút trở thành một Lý thuyết vận dụng vào các lĩnh vực khác về những vấn đề liên quan đến hợp đồng đại diện giữa người sở hữu và người thay mặt người chủ sở hữu để điều hành hoạt động của đơn vị - gọi là người đại diện (Jensen và Meckling, 1976; Harris và Raviv, 1978).

người chủ sở hữu mong muốn người đại diện hoàn thành mục tiêu của mình đặt ra và người đại diện phải thực hiện công việc một cách kết quả và trung thực. Người đại diện có nhiều thẩm quyền trong việc điều hành hoạt động của đơn vị, trong khi chủ nhân khó giám sát và đo lường hoạt động vui chơi của đơn vị. Lý thuyết cho rằng, tồn tại năng lực người đại diện không thực hiện hết hoặc không đúng những yêu cầu của người sở hữu vốn đề ra. cho nên vì vậy xảy ra xung đột lợi ích giữa người sở hữu vốn và người đại diện.

Lý thuyết đại diện cho rằng, kiểm toán viên được chọn trong mối quan hệ lợi ích giữa bên thứ ba và nhà cai quản. Do đó, kiểm toán viên đóng vai trò là chuyên gia có chuyên môn cao và tự do để xác thực thông tin thể hiện trên báo cáo của đơn vị được kiểm toán, từ đó giải quyết những xung đột lợi ích giữa người chủ, người đại diện và các bên liên quan.

Kim chỉ nan tính hợp pháp

Lý thuyết tính hợp pháp dựa trên tiền đề rằng các tổ chức cần phải khẳng định tính hợp pháp của họ trong môi trường bằng cách tuân theo các chuẩn mực và kỳ vọng của xã hội để duy trì liên quan và tiếp tục tồn tại (Suchman, 1995). Khi thái độ và kỳ vọng của xã hội thay đổi, các tổ chức cần được thích ứng với sự thay đổi các yêu cầu để đảm bảo hoạt động này là hợp pháp và hợp lý (Deegan, 2006). Tính hợp pháp của một đơn vị là một nguồn lực vận động mà được thu được một cách cạnh tranh từ môi trường và sử dụng để giành được mục tiêu đặt ra (Pfeffer & Salancik, 2003; Suchman, 1995).

Đối với những công ty kiểm toán hòa bình, mặc dù khung pháp lý cung cấp tính hợp pháp cho các chức năng kiểm toán của chính nó, sự mất lòng tin của công chúng dẫn đến từ những thất bại kiểm toán đòi hỏi sự cần thiết phải thiết lập lại tính hợp pháp của nghề nghiệp. Môi trường của các kiểm toán viên bao gồm nhiều bên liên quan khác nhau như khách hàng thông tin, nhà quản lý nhà nước và cơ quan chuyên môn.

cân xứng với các Lý thuyết tính hợp pháp, tất cả các bên liên quan có những kỳ vọng của một báo cáo kiểm toán độc lập về báo cáo tài chính có trung thực và phải chăng để đưa ra quyết định phù hợp. Như độc lập về mặt hình thức dựa vào vào cách mà người sử dụng thông tin nhận thức tai hại hiện tại và biện pháp bảo vệ được áp dụng để giảm thiểu những tác hại đến hơn cả chấp nhận được, các bên liên quan sẽ định kỳ kiểm tra liệu có hay không kiểm toán viên kiểm soát các hiểm họa tới mức chấp nhận được để khẳng định tính hợp pháp của họ.

Lý thuyết tính hợp pháp cung cấp cơ sở cho các bên liên quan để đánh giá sự hình thức của tính độc lập bằng cách xem xét liệu có hay không kiểm toán viên tránh được hoặc kiểm soát điều hành các hiểm họa tới cả chấp nhận bằng cách thực hiện các biện pháp bảo vệ.

Tổng quan các điều tra nghiên cứu về dịch vụ phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán

Có tương đối nhiều nghiên cứu liên quan tác động của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên tại nhiều thị trường khác nhau qua các thời kỳ. kết quả của sự ảnh hưởng là hỗn hợp. Dịch vụ phi kiểm toán có thể làm giảm tính độc lập kiểm toán hoặc không ảnh hưởng đánh kể đến tính hòa bình. Một số nghiên cứu và điều tra còn cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán làm tăng chất lượng kiểm toán. có thể kể tới các điều tra nghiên cứu tiêu biểu sau:

Dịch vụ phi kiểm toán rất có khả năng ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán. RandolphA. Shockley (1981) nghiên cứu thông qua bảng câu hỏi qua mail, công dụng là công ty kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý thì làm giảm tính chủ quyền kiểm toán.

Nicholas Dopuch và Ronald R. King (1991) dùng phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu và điều tra và tác giả đề nghị rằng, người làm chính sách ngăn cấm dịch vụ phi kiểm toán thì sẽ có sự bất lợi tác động tới kết cấu thị trường của ngành kiểm toán, từ đó có thể ảnh hưởng tính chủ quyền kiểm toán.

Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra mối quan hệ giữa phí phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán thì nhờ vào vào nhiệm kỳ kiểm toán, và phí phi kiểm toán có tác động âm tới tính độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và quy mô công ty khách hàng nhỏ. Dahlia Robinson (2008) cho rằng, dịch vụ thuế cung cấp bởi kiểm toán viên thì làm suy giảm tính chủ quyền kiểm toán. Allen D. Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh được mối quan hệ giữa sự suy giảm tính tự do và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ.

Kiểm toán viên cung cấp dịch vụ hỗ trợ kiện tụng có nhiều khả năng biện hộ quan điểm khách hàng của họ, từ đó làm giảm tính hòa bình kiểm toán. Tiêu biểu có các điều tra nghiên cứu của: Crain và cộng sự (1994); Trompeter (1994); Ponemon (1995); Brody & Masselli (1996); Haynes và cộng sự (1998); Shaub (2004); Francis (2006); Jenkins & Lowe (2011). Dịch vụ xây đắp hệ thống cũng làm giảm tính độc lập kiểm toán như nghiên cứu và điều tra của Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983).

Mặc dù, có nhiều nghiên cứu và điều tra cho rằng, dịch vụ phi kiểm toán không làm giảm tính độc chủ quyền toán. Mark L . Defond và cộng sự (2002) không tìm kiếm thấy sự liên quan đáng kể giữa các phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính độc lập kiểm toán viên. A A Ghosh và cộng sự (2009) cho rằng, không có bằng chứng về mối liên quan giữa tính chủ quyền kiểm toán và phần trăm phí phi kiểm toán.

Mohinder Parkash và Rajeev Singhal (2009) cho biết thêm không có sự tương quan đáng kể giữa ý kiến chấp nhận toàn phần và phí dịch vụ phi kiểm toán. Philip Beaulieu và Alan Reinstein (2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít có khả năng hơn kiểm toán viên ở công ty nhỏ trong vụ việc tin rằng dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính hòa bình kiểm toán.

Nicole Ratzinger-Sakel (2013) cho rằng, kiểm toán viên nước Đức thì không giảm tự do hơn khi cung cấp dịch vụ phi kiểm toán. Ananth Seetharaman và cộng sự (2015) không tìm kiếm thấy mối quan hệ giữa dịch vụ thuế được cung cấp bởi kiểm toán viên và chất lượng báo cáo tài chính cho công ty đại chúng.

Dịch vụ phi kiểm toán tạo nên sự lan tỏa kiến thức, từ đó đem lại nhiều lợi ích. Zoe-Vonna Palmrose (1986) cho rằng khách hàng cảm nhận tốt hơn với việc được công ty kiểm toán cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Mohinder Parkash và Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có xu hướng mua dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán từ một công ty kiểm toán.

Michael Firth (1997) giải thích công ty có chi phí ủy quyền đại diện cao hơn thế thì có liên quan đến mua dịch vụ phi kiểm toán nhỏ hơn từ kiểm toán viên của họ. Jennifer R. Joe và Scott D. Vandervelde (2005) chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên có khả năng có nhiều lợi ích từ việc kiến thức chuyển nhượng bàn giao thêm cho tiếp cận khủng hoảng rủi ro kiểm toán khi cùng một kiểm toán viên thực hiện cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. nghiên cứu của W. Robert Knechel và Divesh S. Sharma (2012) cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên thì đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến mất sự tác dụng kiểm toán.

Ngoài ra, dịch vụ phi kiểm toán cũng có liên quan đến các công ty có hành vi gian lận báo cáo tài chính. Ariel Markelevich và Rebecca L. Rosner (2013) chỉ ra rằng, những công ty gian lận mà bị phạt bởi ủy ban chứng khoán thì chi trả tổng phí, phí kiểm toán, phí phi kiểm toán cao hơn đáng kể so với các công ty bị phạt không phải từ ủy ban chứng khoán.

Các nghiên cứu trên cho thấy thêm, Một số nghiên cứu chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Một số nghiên cứu cho biết dịch vụ phi kiểm toán không ảnh hưởng tác động đến tính tự do kiểm toán hoặc không đủ bằng chứng cho sự tác động này. Bên cạnh đó, Một số nghiên cứu khác thì cung cấp bằng chứng rằng dịch vụ phi kiểm toán làm tăng năng lực chuyên môn lan tỏa kiến thức và tăng chất lượng kiểm toán. Như vậy, đối với sự ảnh hưởng của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập kiểm toán, công dụng các nghiên cứu và điều tra là hỗn hợp.

Lý giải hiệu quả hỗn hợp có khả năng là do các nghiên cứu được thực Lúc Này các đất nước mà khác nhau về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Đồng thời, các nghiên cứu trên ít khi dùng phương pháp nghiên cứu định tính theo bối cảnh để khám phá tại thị phần đang nghiên cứu. Do đó, nếu nghiên cứu và điều tra được thực hiện tại VN – một thị trường kinh tế mới nổi có tương đối nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa biệt lập với các nước trên thế giới - thì rất cần được xác định từng loại hình dịch vụ phi kiểm toán ảnh hưởng tính chủ quyền kiểm toán trong bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của VN.

Kết quả nghiên cứu và hàm ý

Thông qua công dụng khảo lược và phân tích từ các các điều tra nghiên cứu trước, khẳng định lại tính thích hợp với bối cảnh Việt Nam từ vấn đáp chuyên gia, tác dụng như sau:

Dịch vụ phi kiểm toán tại Việt Nam đang được các công ty kiểm toán cung cấp gồm có: Dịch vụ ghi sổ kế toán, dịch vụ support thuế, dịch vụ hỗ trợ tư vấn cai trị, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ thiết kế hệ thống thông tin kế toán, dịch vụ kiến thiết kiểm soát và điều hành nội bộ, dịch vụ đánh giá kiểm soát nội bộ, dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế, dịch vụ kế toán quản trị, định giá DN, tư vấn niêm yết/cổ phần hóa DN, dịch vụ đào tạo.

Trong các dịch vụ phi kiểm toán nêu trên, thì dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế nếu cung cấp cùng với dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng thì sẽ làm giảm tính tự do kiểm toán. Đồng thời, quy tắc đạo đức công việc và nghề nghiệp kiểm toán tại VN cũng không cho phép công ty kiểm toán cung cấp đồng thời 2 dịch vụ này cùng lúc cung cấp dịch vụ kiểm toán cho 1 khách hàng.

Người được vấn đáp cho rằng, các dịch vụ phi kiểm toán còn lại thì không ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán do bộ phận cung cấp dịch vụ phi kiểm toán khì khác với nhóm thực hiện kiểm toán.

Về phía đơn vị được kiểm toán, họ cho rằng tính hòa bình kiểm toán vẫn đảm bảo nếu dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán được thực hiện bởi những nhóm người khác nhau. Hơn nữa, dịch vụ phi kiểm toán sẽ lan tỏa kiến thức sang dịch vụ kiểm toán, làm tăng tác dụng kiểm toán.

Từ hiệu quả điều tra nghiên cứu trên cho thấy dịch vụ phi kiểm toán với dịch vụ ghi sổ kế toán và tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính chủ quyền kiểm toán. Những dịch vụ phi kiểm toán khác không những không làm tính tự do kiểm toán mà còn làm tăng hiệu quả kiểm toán do có được sự lan tỏa kiến thức.

Kết luận

Kiểm toán Thành lập và hoạt động từ nhu cầu của xã hội nhằm gia tăng tính tin yêu và minh bạch của thông tin tài chính. Tính chủ quyền là một yếu tố luôn được xã hội kỳ vọng ngày càng cao để bảo đảm an toàn chất lượng kiểm toán. Tính độc lập kiểm toán bị ảnh hưởng tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố dịch vụ phi kiểm toán. Đã có rất nhiều điều tra và nghiên cứu trên quả đât về mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính tự do kiểm toán. Tuy nhiên, hiệu quả của các nghiên cứu khác nhau, đôi khi trái ngược nhau.

Dựa vào phương pháp nghiên cứu cân xứng, bài viết đã xác định được loại hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ support thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán khác như: Dịch vụ support quản lý; dịch vụ support tài chính; dịch vụ thiết kế hệ thống thông tin kế toán; dịch vụ xây dựng kiểm soát nội bộ; dịch vụ đánh giá kiểm soát nội bộ; dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế; dịch vụ kế toán quản trị; định giá doanh nghiệp; support niêm yết/cổ phần hóa doanh nghiệp, dịch vụ đào tạo thì không làm suy giảm tính hòa bình kiểm toán.

Tài liệu tham khảo:

1. Malcolm Smith, Research method in Accounting, 2003;

2. Eisenhardt, Kathleen M., Agency Theory: An Assessment And Review,The Academy of Management Review;Jan 1989; 14,1;57;

3. Shockley, R. A. (1981). Perceptions of auditors’ independence: An empirical analysis. The Accounting Review, 56, 785-800;

4. Palmrose, Z. (1986). The effect of nonaudit services on the pricing of audit services: Further evidence.Journal of Accounting Research, 24, 405-411.

http://googleigoogle.com/dich-vu-phi-kiem-toan-va-tinh-doc-lap-cua-kiem-toan-vien-tai-vn-17252.html
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét